Tác giả: Nguyễn Văn Chiến
Tranh “Ngắm ai mà thần người ra thế” Sơn Dầu (2011) Nguyễn Văn Chiến
Từ trước tới nay Văn hóa - Văn Nghệ (VHVN) luôn đồng hành trong sự nghiệp cách mạng và xây dựng đất nước. VHVN luôn Phát huy Bản sắc Văn hóa Dân tộc để phát triển Văn học Nghệ thuật hiện đại. Văn học Nghệ thuật (VHNT) rất phát triển, đến nay có 9 hội chuyên ngành, mỗi ngành có lại những đặc thù riêng với nhiều nghệ sĩ tài năng, sáng tạo nhiều loại tác phẩm nghệ thuật. Trong đó, Mỹ thuật cũng phát triển trên 3 ngành: Nghệ thuật tạo hình, Mỹ thuật Công nghiệp và Mỹ nghệ - Gốm truyền thống. Hiện nay trước làn sóng hội nhập, “Công nghiệp Văn hóa” (CNVH) đang phát triển trên thế giới, và ở ta cũng đã bắt nhịp hoạt động. Do vậy, cần nhận thức rõ về: ‘Lĩnh vực’, ‘Loại hình’, ‘Tinh chất’ của CNVH với sáng tạo VHNT? Để xem CNVH có bao trùm hết các lĩnh vực Văn hóa và sáng tạo VHNT không? Hay chỉ ‘bao hàm’ đến đâu? vào ‘những ngành nào’ trong phạm vi rộng lớn của các lĩnh vực Văn hóa - Văn Nghệ nói chung và trong Mỹ thuật nói riêng? Để cùng CNVH chủ động kết hợp, thúc đấy phát triển trong công cuộc Đổi mới, Hội nhập Quốc tế?
I. Nhận thức ‘Công nghiệp Văn hóa’, hội nhập Quốc tế: đã có trên thế giới, thuật ngữ CNVH xuất hiện lần đầu trên sách năm (1944). Hai nhà nghiên cứu người Đức là Adorno và Horkneimer (trong cuốn Dialectic of Enlightenment) cho rằng: CNVH làm cho văn hóa bác học và văn hóa bình dân gặp gỡ. Theo họ, các sản phẩm văn hóa đã được tính toán kỹ cho nhu cầu của đại chúng, do đó được sản xuất theo kế hoạch. Hoặc trong sách ‘A handbook of cultural economics của Towse’ cho rằng: CNVH còn được gọi là “Công nghiệp sáng tạo” (viết tắt CNST) tạo ra các sản phẩm và dịch vụ thương mại hóa cho đại chúng với nội dung nghệ thuật, và có ý nghĩa Văn hóa sáng tạo. Sản phẩm văn hóa được tạo ra từ công việc của những người nghệ sỹ có tài, được đào tạo. CNVH bao gồm các ngành sản xuất và phân phối một cách thương mại hóa các sản phẩm, dịch vụ gắn liền với việc tiêu dùng hàng hóa của dân chúng có ý nghĩa văn hóa, xã hội.
Với đặc trưng chính là sản xuất theo quy mô công nghiệp kết hợp với văn hóa. Do vậy thuật ngữ CNVH là gồm 2 vế “Công nghiệp” và “Văn hóa” ghép lại. Về mặt “Công nghiệp”: là chỉ quá trình sản xuất và sự tiêu chuẩn hóa các sản phẩm, cũng như hợp lý hóa kỹ thuật liên quan đến việc cung ứng, phân phối sản phẩm văn hóa. Tuy nhiên, cũng có ý phê phán sự khai thác thương mại tính sáng tạo của con người. UNESCO cho rằng: “CNVH xuất hiện khi các hàng hóa và dịch vụ văn hóa được sản xuất và tái sản xuất, được lưu trữ và phân phối trên dây chuyền công nghiệp và thương mại, tức là trên quy mô lớn, phù hợp với chiến lược kinh tế hơn là phát triển văn hóa”. CNVH là những ngành sản xuất ra những sản phẩm hữu hình (vật thể) hoặc vô hình (phi vật thể) mang tính nghệ thuật, sáng tạo và có tiềm năng tạo ra thu nhập của cải thông qua việc khai thác các: tài sản văn hóa, sản xuất hàng hóa, dịch vụ dựa trên tri thức (cả truyền thống và đương đại). Các lĩnh vực thuộc CNVH có điểm chung là đều vận dụng tính sáng tạo, tri thức văn hóa và sở hữu trí tuệ để tạo ra các sản phẩm, dịch vụ với ý nghĩa văn hóa, xã hội. Như vậy về mặt “Công nghiệp” liên quan đến sản xuất hàng hóa, còn về mặt “Văn hóa” thường diễn đạt ý niệm trừu tượng về giá trị. Ghép hai khái niệm “Công nghiệp” và “Văn hóa” với nhau, làm bộc lộ sức mạnh tiềm ẩn của văn hóa về phương diện kinh tế mà trước đây chúng ta ít chú ý tới.
Với những cách hiểu về CNVH, có điểm chung là: phải qua công nghiệp, gồm các ngành sản xuất và phân phối một cách thương mại hóa các sản phẩm, dịch vụ có ý nghĩa văn hóa, xã hội. Song vẫn bị chồng chéo, hoặc nhầm lẫn giữa CNVH và CNST. Sáng tạo ở đây có hai khía cạnh: “Sáng tạo văn hóa” (tác phẩm) và “sáng tạo công nghệ” (thực hiện sản xuất ra các sản phẩm văn hóa). Một số nước gọi chung là CNST. Trong khi CNVH không thống kê bao gồm ‘những ngành’,‘lĩnh vực’ nào? Do vậy chỉ thấy các ‘cách phân loại’ gần như đều chấp nhận ‘các ngành có áp dụng công nghệ tiên tiến’, mà hiểu CNST trở thành một ngành của CNVH. Và cũng chỉ đưa ra có 10 ngành thuộc CNVH là: Di sản, lưu trữ, thư viện, sách và xuất bản, nghệ thuật thị giác, nghệ thuật biểu diễn, truyền thông nghe nhìn và đa phương tiện, kiến trúc, quảng cáo, thủ công mỹ nghệ.. UNESCO cũng nhận định CNVH là công nghiệp kết hợp 3 yếu tố: Sáng tạo, Cơ sở hạ tầng và Công nghệ sản xuất hiện đại, để sản xuất ra các sản phẩm văn hóa, đem lại lợi ích kinh tế, nhưng không thể bao ôm hết các ngành nghề lĩnh vực Văn hóa, Văn nghệ. Cũng chỉ nêu có khoảng 10 ngành gồm: Quảng cáo, giải trí kỹ thuật số, mỹ thuật đồ cổ và thủ công mỹ nghệ, thiết kế mỹ thuật, phim ảnh và video, in ấn xuất bản, âm nhạc, nghệ thuật biểu diễn, phát thanh truyền hình và phần mềm vi tính... Như vậy nhiều ngành trong lĩnh vực Văn hóa - Văn Nghệ không thuộc CNVH. Việc tạo dựng một “ngành lớn” CNVH phải có ‘định dạng’ khuôn khổ, và ‘hệ thống phân loại các ngành’ thuộc CNVH. Cho đến nay vẫn chưa được phân định rõ ràng và thống nhất giữa các tổ chức, cũng như các quốc gia. Cho nên cần phải xây dựng chuẩn”một khung phân loại thống nhất về CNVH”, để liệt kê các hạng ngành nào vào danh sách thuộc ngành CNVH, đưa ra các quyết sách đúng đắn, nhằm phát triển ‘ngành công nghiệp tiềm năng’ này. Trên thực tế lợi nhuận của CNVH đã khiến rất nhiều doanh nghiệp lớn trên thế giới đua nhau tham gia. Do đó, ngành ‘Công nghiệp Văn hóa’ là một xu hướng phát triển. Thực tế ở Anh đã tạo ra thu nhập khoảng 112,5 tỷ bảng/năm. Hồng Công (Trung Quốc) có được 85% thu nhập quốc dân từ nguồn thu dịch vụ giải trí, truyền hình. Hàn Quốc, phát triển mạnh mẽ và có ảnh hưởng tới toàn cầu nhờ sự phát triển của ngành công nghiệp điện ảnh, âm nhạc...)
!!. “Công nghiệp Văn hóa” ở Việt Nam cũng rất mới, và còn nhiều bất cập. Dầu nguồn tiềm năng quan trọng là nền Văn hóa truyền thống, với bề dày hàng nghìn năm độc đáo và đa dạng. Sự phong phú của nhiều Di tích Văn hóa Lịch sử, Lễ hội, các loại hình nghệ thuật, Kiến trúc, Mỹ thuật, ngành nghề thủ công của 54 tộc người, cùng Danh lam, Thắng cảnh đất nước. Trong những năm gần đây, vốn Di sản văn hóa Việt Nam được các tổ chức quốc tế ghi nhận. Điều này đã và đang được phát huy tài năng sáng tạo cho sự tăng trưởng trong CNVH,. Song cũng chỉ gồm dịch vụ của các lĩnh vực như: Quảng cáo; Nghệ thuật thị giác Kiến trúc; Thủ công mỹ nghệ; Thiết kế Thời trang; Nghệ thuật Điện ảnh, biểu diễn; Truyền hình và phát thanh, Xuất bản âm nhạc; Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm; Phần mềm và các trò chơi giải trí; Du lịch văn hóa. Qua đó cũng thấy nhiều ngành nghề không nằm trong CNVH, để chủ động hoạt động sáng tạo trên lĩnh vực vốn có của mình. Các ngành sử dụng năng lực sáng tạo, nguồn vốn văn hóa, kết hợp ứng dụng công nghệ và kỹ năng kinh doanh, tạo ra các sản phẩm, dịch vụ văn hóa đáp ứng nhu cầu xã hội. CNVH tạo ra những cơ hội mới về việc làm, sản xuất sản phẩm và dịch vụ, phát triển kinh tế. Kết nối các thành tố: Tài năng sáng tạo, Vốn văn hóa kết hợp với công nghệ và Kỹ năng kinh doanh cho các sản phẩm và Dịch vụ văn hóa. Sự hoạt động lao động phải được chuyên môn hóa rõ ràng, được kinh doanh khai thác một cách có hệ thống và có trách nhiệm với xã hội. CNVH là lĩnh vực văn hóa sáng tạo kết hợp với công nghệ sản xuất, tạo ra các sản phẩm tinh thần cao đẹp, đồng thời mang lại hiệu quả kinh tế. nhưng còn chưa xác định được rõ chủ thể của CNVH là ai? ai làm? và với lĩnh vực ngành nghề nào của Văn hóa - Văn Nghệ? Hệ thống quản lý và các mô hình đầu tư chưa thực sự phù hợp cho sự phát triển ngành CNVH (*). Cần có sự hợp tác hiệu quả trong các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp có liên quan sản xuất của CNVH? Sự kết hợp của sự sáng tạo, quá trình sản xuất và phân phối hàng hóa, dịch vụ thuộc về văn hóa phải được bảo vệ các quyền sở hữu trí tuệ. Tức Tác phẩm văn hóa nghệ thuật khi sử dụng phải được bảo vệ bản quyền tác giả. Do vậy rất cần nghiên cứu, khảo sát, học tập kinh nghiệm tại các quốc gia phát triển, nâng cao nghiệp vụ, trên con đường đưa sản phẩm Văn hóa Việt Nam ra thị trường quốc tế.
III. Mỹ thuật Thủ đô cùng ‘Công nghiệp Văn hoá’ phát triển, hội nhâp Quốc tế.
Trong Mỹ thuật có hai lĩnh vực là “Nghệ thuật tạo hình” (NTTH) và “Mỹ thuật Công nghiệp” (MTCN). Hà Nội từ lâu đa có 2 trường Đại học Mỹ thuật chính quy đào tạo về hai lĩnh vực mỹ thuật này. Về sáng tạo MTCN : với đội ngũ họa sỹ với nhiều khoa, ngành (hiện đại và truyền thống) như : Sơn mài, Gốm mỹ thuật, Đồ họa công nghiệp, Thiết kế nội ngoại thất, Thời trang, Tạo dáng công nghiệp…Sáng tạo kết hợp mỹ thuật và kỹ thuật chế tạo sản phẩm. Cái đẹp Mỹ thuậti gắn liền với sản xuất công nghiệp, đi vào ứng dụng cuộc sống, đáp ứng sinh hoạt vật chất, tinh thần: Đẹp hình thức sản phẩm, Bền và tiện dụng. Ngày nay MTCN ngày càng phát triển, làm nên diện mạo mới của đời sống thực dụng, đánh dấu sự phát triển khả năng thiết kế sáng tạo các sản phẩm công nghiệp. Cái đẹp từ ý tưởng nghệ thuật, thông qua kết cấu, hình dáng, đường nét, hình khối, màu sắc gắn liền với chế tạo sản phẩm sản xuất công nghiệp. Sự gắn kết “Mỹ thuật và Kỹ thuật công nghệ”. đáp ứng sinh hoạt vật chất, tinh thần đời sống. Phát triển MTCN (gọi là Design công nghiệp). Chức năng Design là sản xuất đồng loạt sản phẩm, còn chú trọng yếu tố cá tính và phong cách. Đặc biệt Design Công nghiệp hiện đại ngày càng vươn tới sự hài hòa giữa thế giới sản phẩm và môi trường tự nhiên và xã hội. Hoạt động MTCN đáp ứng và phối hợp với CNVH.
Mỹ thuật ứng dụng tham gia các “Dự án nghệ thuật công cộng”. Từ những tượng đài, đến: các ‘Công Viên’, tạo nơi vui chơi giải trí Văn hóa, và “Văn hóa Ẩm thực”. Hay công trình “Đường Gốm sông Hồng”, đã làm cho con đường dài ven sông Hồng với dân cư trở nên đẹp đẽ. Qua nhứng đề tài tranh ghép gốm đó đã đưa thẩm mỹ vào đời sống, đồng thời truyền bá nhiều nội dung đề tài phản ánh về Hà Nội. Bên cạnh đó đã thúc đấy sản xuất Gốm ứng dụng. Hoặc “Dự án nghệ thuật công cộng” họa sĩ đã đưa nghệ thuật vào môi trường công cộng, cải tạo nơi đó trở thành một con đường với các bức họa trên tường. mang không gian nghệ thuật, nơi sinh hoạt cộng đồng. Hoặc đưa “Mô hình Triển lãm cơ động ngoài trời” vào các cuộc, như: Kỷ niệm 1010 năm Thăng Long Hà Nội (1010 - 2020) đưa Triển lãm vào môi trường cuộc sống. Những sắp đặt không gian bằng kêt hợp các mô hình biểu trưng với những khối pano ảnh, trình bầy theo từng giai đoạn lịch sử phát triển của thủ đô, như ‘Thời thuộc Pháp’, ‘Cánh mạng tháng 8’, ‘Kháng chiến chống Pháp GPTĐ 1954’, ‘Giai đoạn chống chiên tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ, xây dựng CNXH’ đã thu hút đã thu hút được nhiều xem. Hoặc Triên lãm ngoài trời: “Văn hóa dân gian trong đời sống đương đại Hà Nội” (12 - 2020). Các ‘Sản phẩm văn hóa dân gian’ Với sự tham gia của nhiều làng nghề truyền thống, như : Sản phẩm đúc đồng làng Ngũ Xã (quận Ba Đình); Dệt lụa (Vạn Phúc), Dệt tơ tằm, tơ sen (Phùng Xá); Khảm trai, sơn mài, Mây tre đan (Chương Mỹ); Mộc (Chàng Sơn); Nặn tò he (Xuân La), Chuồn chuồn tre (Thạch Xá), May áo dài truyền thống khâu tay dọc nay có hơn 500 hộ làm nghề (Trạch Xá). Những tranh dán mảnh lụa, vải mang cả yếu tố đương đại và họa tiết trang trí, thủ công. Triển lãm còn mang ý nghĩa bảo vệ, bảo tồn, phục hồi các nghề truyền thống.
Về sáng tạo Nghệ thuật tạo hình: các nghệ sĩ tạo hình Thủ đô, gắn bó với các mặt cuộc sống, hướng sáng tác vào các đề tài: Lịch sử chống ngoại xâm, chiến tranh cách mạng, Bảo vệ tổ quốc, Lao động, sản xuất, và xây dựng phát triển thủ đô, cũng như các mặt sinh hoạt, phong tục, lễ hội, đến các loại: chân dung, phong cảnh Hà Nội và các vùng miền đất nước. Mở rộng tìm tòi nghệ thuật, phát triển phong cách đa dạng.. Đổi mới, hình thức tác phẩm, mở rộng sáng tác, nâng cao chất lượng nghệ thuật, đề cao bản sắc dân tộc. Từng bước hội nhập với mỹ thuật thế giới. Số lượng sáng tác phẩm ngày càng nhiều. đưa Mỹ thuật phát triển rộng và khởi sắc, hướng nghệ thuật: chân, thiện, mỹ. Đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ tạo hình, góp vào.xây dựng đề cao văn hóa Thủ đô trong công cuộc đổi mới đất nước. Kết quả sáng tác của MTTĐ từ trước đến nay với số lượng lớn tác phẩm, Sáng tác đi liền với triển lãm công bố tác phẩm, đưa tác phẩm đến đến với công chúng. Thành tựu Mỹ thuật Thủ đô đã góp phần xứng đáng vào phát triển Mỹ thuật Việt Nam.
Về CNVH trên thực tế ở các nước (và cả ở ta) cho thấy: chỉ mới đưa ‘khoảng 10 ngành nghề’ vào hạng mục “Sản xuất công ngiệp”. Tức CNVH không thể bao trùm hết các ngành trong các lĩnh vực Văn hóa - Nghệ thuật. Để tránh sự “trông chờ … CNVH”. Trong khi nhiều môn ngành nghệ thuật, mà người nghệ sĩ phải tự thân vận động để sáng tạo tác phẩm. May thì được hỗ trợ kinh phí cho hoạt động. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, Nghệ thuật Tạo hình cũng cần tìm giải pháp, xây dựng nguồn lực xã hội hóa, phối hợp với CNVH để phát triển. Ở nghệ thuật tạo hình với sáng tạo Tác phẩm (là “độc bản”, là “độc nhất vô nhị” chất liệu cụ thể ) không thể đưa tác phẩm “chui” vào “công nghiệp” sản xuất thay việc sáng tác của nghệ sĩ? mất đi giá trị nguyên bản, quý hiếm. Còn “công nghệ in” chỉ ra Sản phẩm “Tranh in” hay “in sách tranh”, vẫn không thể thay thế được nguyên bản Tác phẩm Bảo tàng.
CNVH là một lĩnh vực với hướng phát triển, là: Công nghiệp Sản xuất, sản phẩm Văn hóa. Gồm các ngành sản xuất và phân phối một cách thương mại hóa các sản phẩm, dịch vụ có ý nghĩa văn hóa, xã hội, thu lợi nhuận”. Như vậy trong “Sự nghiệp Văn hóa Việt Nam” có thêm một lĩnh vực CNVH hoạt động sản xuất văn hóa “mang tinh công nghiệp”. CNVH chỉ có một số lĩnh vực ngành nghề, không bao hết các lĩnh vực Văn hóa- Văn nghệ. Bởi sự đa dạng của nhiều ngành, mà mỗi ngành có đặc thù, và bề dày sáng tạo. Như thế, với sáng tạo VHNT và Mỹ thuật Thủ đô đáp ứng“Xây dựng và phát triển Văn hóa con người Việt Nam, bền vững đất nước” (như Nghị quyết 33 của Bộ Chính Trị), và cùng đồng hành “Phát triển Công nghiệp Văn hóa trên địa bàn Thủ đô” (Nghị quyết 09 NQ/TU thành ủy giai doan 2021-2025 định hướng đến 2030, tầm nhìn đến 2045).Cho thấy Văn nghệ sĩ Thủ đô luôn sáng tạo vì sự nghiệp ‘Văn hóa - Văn nghệ’ nước nhà. (NVC)’
CHÚ THÍCH
…………………………….
(*) CNVH ở Việt Nam phải hiểu CNVH là gì? ai làm? để làm được điều này vẫn còn một thách thức lớn đối với các nhà quản lý văn hóa. Ông Lê Văn Hùng (PGĐ cơ quan đại diện BVHTT-DL TP HCM cho rằng: “Hiện vẫn chưa có khái niệm cụ thể, rõ ràng về CNVH? Mà CNVH chỉ là nói chung cho một số khía cạnh chứ không bao gồm cả nền văn hóa. Bởi văn hóa tồn tại trong mọi khía cạnh của đời sống xã hội. Ngoài ra, rất khó để đánh giá về một nền văn hóa và sự phát triển của nó bởi văn hóa có mặt trong tất cả đời sống xã hội của con người. Chỉ biết rằng nền văn hóa có cái gốc, mỗi dân tộc có một nền văn hóa riêng. Theo ông Lương Hồng Quang (Phó viện trưởng Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam, nguyên nhân dẫn đến tình trạng CNVH Việt Nam chưa phát triển là do chúng ta chưa xây dựng được khái niệm cụ thể, rõ ràng về CNVH cho nên còn nhận thức mơ hồ về nó. Khi nói đến CNVH mọi người hay nghĩ một cách hẹp đó chỉ là văn hóa truyền thống, là vấn đề bản sắc...Ngoài ra, vướng mắc lớn nhất vẫn là nhận thức của xã hội nói chung và giới quản lý văn hóa nghệ thuật nói riêng về tầm quan trọng của CNVH đối với nền kinh tế và đối với sự phát triển văn hóa nghệ thuật. Thậm chí, một số người đồng nhất CNVH với.thương mại hóa văn hóa nghệ thuật.