Dùng sơn dầu nhãn hiệu nào?

Ngày đăng : 10:05:52 27-08-2018

Dùng sơn dầu nhãn hiệu nào?

Nguyễn Đình Đăng

Các hãng hoạ phẩm nổi tiếng thế giới thường sản xuất ít nhất 2 hạng màu:

1) hạng cho hoạ sĩ chuyên nghiệp (artist grade)

2) hạng cho các hoạ sĩ nghiệp dư, những người mới học vẽ sơn dầu hay sinh viên mỹ thuật, gọi là hạng sinh viên (student grade).

Nhưng cũng có một số hãng, như Old Holland, chỉ sản xuất sơn dầu cho hoạ sĩ chuyên nghiệp.

Màu cho hoạ sĩ chuyên nghiệp được làm từ các sắc tố hay hạt chất màu (pigment) “xịn”, nên chất lượng cao, và giá thành cũng cao. Trong đó có nhiều màu đơn sắc tố (mono-pigment) tức màu chỉ được làm từ một loại sắc tố chứ không phải trộn vài loại sắc tố với nhau. Màu vẽ hòa theo luật trừ màu [1] nên càng trộn nhiều loại sắc tố màu càng xỉn. Vì thế màu đơn sắc tố [2] (ví dụ đỏ cadmium PR108, lam cobalt PB28, terre verte PG23, v.v.) là những màu tinh khiết và lộng lẫy nhất, trong khi các màu được làm từ pha trộn nhiều sắc tố thường “câm” hơn (Ví dụ lục olive của Winsor & Newton được tạo bởi pha trộn 2 loại pigments chlorinated copper phthalocyanine + synthetic yellow iron oxide: PG7 + PY42, trong khi cũng màu này của Daler Rowney thì lại được tạo bởi pha trộn 3 loại pigments chlorinated copper phthalocyanine + nickel dioxine yellow + pyrrole carmine: PG7 + PY153 + PR264). Cũng vì thế mà không có cách gì có thể pha được những màu đơn sắc tố từ 2 màu khác, ví dụ không thể nào pha được đỏ cadmium rực rỡ bằng cách trộn magenta với vàng theo như lý thuyết trừ màu. Theo nghĩa này, những màu đơn sắc tố thực chất là những màu sơ cấp (màu cơ bản).

Màu cho sinh viên có ít chất màu thật, được độn thêm các chất trơ, hoặc các pigments bị thay bằng chất mô phỏng cho giống sắc (hue) nhưng rẻ tiền hơn để giảm giá thành, song chất lượng kém hơn nhiều về cả độ rực rỡ, độ bão hoà, độ trong cũng như tính bất biến và độ chịu sáng. Dưới đây là một ví dụ so sánh màu cho hoạ sĩ chuyên nghiệp với màu cho sinh viên.

student

So sánh màu cho sinh viên (trên) với màu cho hoạ sĩ chuyên nghiệp (dưới).

Trong ví dụ trên, cadmium pigment đỏ thật chỉ có trong màu cho hoạ sĩ (dưới, bên trái). Màu đỏ sinh viên là màu mô phỏng cadmium đỏ, thiếu cả độ đục lẫn độ nhuộm (trên, bên trái). Lam cobalt mô phỏng (trên, giữa) có sắc như bị tẩm vôi so với cobalt thật (dưới, giữa). Ngay cả với những chất màu rẻ, màu vàng cho hoạ sĩ (dưới, phải) cũng đậm đặc hơn màu sinh viên (trên, phải).

Vì vậy triết lý dùng màu hạng sinh viên cho tiết kiệm là một triết lý sai lầm, trừ khi bạn mới học vẽ sơn dầu, còn đang tập vẽ, hay đang là sinh viên mỹ thuật.  Nếu bạn đã là hoạ sĩ nhưng giá màu vẫn là vấn đề đối với bạn, thì thà vẽ một bức tranh kích thước nhỏ bằng màu hạng cho hoạ sĩ chuyên nghiệp còn hơn vẽ một bức tranh lớn bằng màu hạng sinh viên.

*

Dưới đây là liệt kê nhãn hiệu, phân loại và ví dụ về giá của một số hãng hoạ phẩm thông dụng.

Trong số các hãng hoạ phẩm nổi tiếng nhất thế giới phải kể đến:

1) Old Holland (Hà Lan, từ 1664),

2) Lefranc & Bourgeois (Pháp, từ 1720),

3) Winsor & Newton (Anh, từ 1832),

4) Sennelier (Pháp, từ 1887)

5) Royal Talens (Hà Lan, từ 1899),

6) Holbein (Nhật Bản) được thành lập từ năm 1900. Sau Đệ nhị Thế chiến (từ 1946) công ty được hồi sinh với tên mới là Holbein Works, nổi tiếng vì chất lượng màu. Ngoài ra Nhật Bản còn 2 hãng nhỏ nhưng sản xuất sơn dầu chất lượng cao là Matsuda và Kusakabe.

1) Old Holland:

Được thành lập từ 1664, Old Holland là hãng hoạ phẩm lâu đời nhất thế giới, chỉ sản xuất một hạng sơn dầu cho hoạ sĩ chuyên nghiệp, có tên Classic Oil Colors,  gồm 168 màu trong tubes 18, 40, 60, 125, 225 ml. Màu trắng và đen còn được bán trong hộp 475 ml và 1 liter.

2)  Lefranc & Bourgeois:

Hãng này sản xuất 3 hạng sơn dầu là Lefranc, Fine, và Louvre Artists’ Oil Colors.

Lefranc là hạng màu dành cho các hoạ sĩ chuyên nghiệp, gồm 119 màu, cực mịn (extra-fine), với độ bão hòa tối đa. Trong số đó có không dưới 55 màu là màu đơn sắc tố.

Fine gồm 50 màu, được lựa từ những màu chịu sáng nhất và rực rỡ nhất, trong tubes 40 và 150 ml.

Louvre là hạng dành cho sinh viên (và những người lần đầu vẽ sơn dầu), gồm 36 màu trong tubes 20, 60 và 150 ml, riêng màu trắng trong hộp 500 ml.

3) Winsor & Newton

Hãng này sản xuất 4 loại sơn dầu: i) Artists’ Oil Colour, ii) Winton Oil Colour, iii) Artisan Water Mixable Oil Colour (sơn dầu có thể pha bằng nước dành cho nghệ nhân), iv) Griffin Fast Drying Oil Colour (sơn dầu khô nhanh Griffin).

i) Artists’ Oil Colour là sơn dầu thượng hạng dành cho hoạ sĩ chuyên nghiệp, được làm từ các pigments mịn và tinh khiết nhất, gồm 120 màu trong tubes 37 và 200 ml.

ii) Winton Oil Colour là màu cho sinh viên và các hoạ sĩ nghiệp dư, gồm 49 màu trong tubes nhiều cỡ.

iii) Artisan Water Mixable Oil Colour là sơn dầu có thêm chất phụ gia nhũ tương (emulsifier) để hòa được trong nước tới 25% thể tích, tránh được dầu thông (turpentine) là dung môi độc hại, thích hợp cho người vẽ chơi, cho học sinh phổ thông, gổm 40 màu trong tubes 37 và 200 ml.

iv) Griffin Fast Drying Oil Colour khô nhanh vì chứa siccative (chất tăng tốc độ khô), gồm 50 màu, trong tubes 21 và 120 ml.

4) Sennelier

Hãng này sản xuất 2 loại sơn dầu: i) Huile Extra Fine và ii) Huile Étude. Cézanne, Van Gogh, Gauguin, Picasso và nhiều hoạ sĩ tăm tiếng khác từng dùng sơn dầu của Sennelier. Lúc mới mở vào năm 1887, hãng này chỉ là một cửa hàng bán hoạ phẩm cho hoạ sĩ tại Paris. Khi các hoạ sĩ không tìm được màu họ muốn từ các hiệu trong vùng, ông chủ hiệu Gustave Sennelier “tức mình”, tự tay chế ra màu cho họ. Website của hãng này có một bản tiếng Pháp cung cấp thông tin khá chi tiết về cách nghiền màu từ các sắc tố, tính chất của các loại dầu tạo màng, dung môi, nhựa cây, keo v.v.

i) Huile Extra Fine là màu cho hoạ sĩ chuyên nghiệp, gổm 144 màutrong tubes 21, 40 và 200 ml. Màu trắng và đen cũng được bán trong hộp 500 ml.

2) Huile Étude là màu cho sinh viên, gồm 36 màu trong tubes 34 và 200 ml.

5) Royal Talens

Hãng này hiện sản xuất 3 loại sơn dầu: i) Rembrandt, ii) Van Gogh, và iii) Cobra.

i) Rembrandt (từ 1899) là sơn dầu dành cho các hoạ sĩ chuyên nghiệp, gồm 120 màu trong tubes  15, 40, 60 (tất cả các màu trắng trừ trắng trong), và 150 ml (một số màu), có chất lượng thượng hạng, độ chịu sáng cao nhất (highest degree of lightfastness), rất tinh khiết và cường độ màu mạnh, nồng độ pigment rất cao.

ii) Van Gogh (từ 1963) là loại cho sinh viên và những nghệ sĩ thích thử nghiệm (the study quality artists’ brand), gồm  66 màu, trong tubes 20, 40, 60 ml 200, riêng màu trắng có trong hộp 500 ml,  chất lượng cao, cường độ mạnh, nồng độ pigment cao, độ chịu sáng tốt (good) tới xuất sắc (excellent).

iii) Cobra là sơn dầu hoà được với nước, cũng có 2 hạng, Artist – dành cho hoạ sĩ gồm 70 màu,  và Study – dành cho sinh viên, gồm 40 màu trong tubes 150 ml. Tương tự Artisan Water Mixable Oil Colour của Winsor & Newton, Cobra chứa phụ gia nhũ tương (emulsifier) khiến sơn dầu hòa được với nước.

6) Holbein

Hãng này sản xuất 5 loại sơn dầu, gồm 3 loại thông thường:  i) Artists’ Oil Color, ii) POP Ecolse Oil Color, iii) Water Soluble “Duo”, và 2 loại mới, cực “xịn” và giá cũng cao hơn hẳn:  iv) Vernet Oil Color và v) Yuichi

i) Artists’ Oil Color là màu cho hoạ sĩ chuyên nghiệp, gồm 164 màu, trong tubes 20 ml (164 màu), 40 ml (146 màu) và 110 ml (50 màu).

ii) POP Ecolse Oil Color là màu cho sinh viên, gồm 50 màu trong tubes 80 và 100 ml.

iii) Water Soluble “Duo Acqua Oil” là sơn dầu hòa được với nước, gồm 100 màu 20, 40, 50 (màu trắng), và 110 ml. Khác với Artisan Water Mixable Oil của Winsor & Newton và Cobra của Royal Talens, Water Soluble “Duo” của Holbein Japan chứa dầu lanh trong đó phân tử acid béo được cải biên hoặc loại ra (modified linseed oil) để hòa được với nước. Water Soluble “Duo Acqua Oil” không có màu làm từ các pigment truyền thống như cadmium, cobalt, và các muối kim loại khác, vì thế không được xếp vào hạng cho hoạ sĩ.

iv) Vernét Oil Color – mang tên hoạ sĩ Pháp Joseph Vernét (1714 – 1789) – gồm 40 màu trong tubes 20 ml và 50 ml (trắng), là thử nghiệm hiện đại nhất của hãng Holbein. Màu Vernét có kích thước pigment rất nhỏ, chỉ bằng nửa kích thước thông thường, khiến ánh sáng được phản xạ đều, ít bị tán xạ, tạo ra độ trong rất cao. 40 màu này được làm từ đơn sắc tố, vì thế không bị xỉn khi pha trộn.

02117-group-1-3ww-l

Vernét Oil Color của hãng Holbein (tubes 20 ml)

v) Yuichi  (có nghĩa là Sơn dầu số 1), gồm 30 màu, là sản phẩm hợp tác giữa Holbein và phòng nghiên cứu Kỹ thuật Sơn dầu của khoa Hội hoạ thuộc Đại học Nghệ thuật và Âm nhạc Tokyo, kết hợp các pigments truyền thống với các nguyên liệu mới do công nghệ tiên tiến nhất tạo ra.

p_item_yuichi1l

Tube sơn dầu Yuichi 20 ml của hãng Holbein

Tôi được biết các nhãn hiệu Lukas (Đức, từ 1862), Daler Rowney(Anh, từ 1783), và Pébéo (Pháp, từ 1919) được ưa chuộng tại Việt Nam. Vì thế tôi cũng liệt kê dưới đây các loại màu của 3 hãng này để các hoạ sĩ và sinh viên mỹ thuật trong nước tham khảo.

7) Lukas:

Hãng này có 4 nhãn hiệu sơn dầu (trong tubes 37 và 200 ml):

i) 1862 là loại cho hoạ sĩ chuyên nghiệp, gồm 70 màu;

ii) Studio là loại cho sinh viên, gồm 48 màu;

iii) Berlin là loại hòa được với nước, gồm 24 màu;

iv) Terzia là loại ít pigments, khiến giá thành rất thấp (và đương nhiên chất lượng cực thấp!), gồm 24 màu (trong tubes 200 ml).

Theo giới thiệu của bản hãng thì pigments trong sơn dầu Lukas 1862được nghiền trong dầu lanh ép lạnh (cho các màu tối), dầu hướng dương (cho các màu sáng) và sáp ongDầu hướng dương (sunflower oil) và dầu rum (safflower oil) là hai loại dầu được dùng từ thế kỷ XX, thay cho dầu hạt thuốc phiện (poppy oil), vì rẻ tiền hơn và khô nhanh hơn và cũng không ngả vàng sau khi khô. Tuy nhiên, so với dầu lanh, cả 3 loại dầu hướng dương, dầu rum và và dầu hạt thuốc phiện đều khô rất chậm và tạo ra màng film yếu vì có tỉ lệ linoleic acid cao trong khi không hề có α-linolenic acid – chất có khả năng kết hợp với oxy tạo ra màng film dai và tốc độ khô nhanh (Xem bảng bên dưới). Dầu lanh có tới khoảng 60% α-linolenic acid và chỉ có 14 % linoleic acid, vì thế dầu lanh khô nhanh hơn và màng film của dầu lanh là màng film dai nhất, tuy có ngả vàng theo thời gian [3]. Hãng Winsor & Newton nghiền các chất màu sáng trong dầu lanh trộn với dầu rum. Lukas xử lý vấn đề khô chậm của dầu hướng dương một phần nhờ thêm sáp ong. Có điều sáp ong khiến sơn dầu mang tính chất của màu encaustic, nên nếu vẽ theo kỹ thuật nhiều lớp thì liên kết giữa các lớp sẽ không bền vững bằng khi không có sáp ong, trừ phi sau khi vẽ xong đem cả bức tranh hơ nóng. Tuy nhiên, hãy nhớ lại Leonardo Da Vinci đã thất bại thảm hại như thế nào khi dùng lửa sưởi bức bích hoạ “Trận đánh ở Anghiari” vẽ bằng encaustic (trang 5 chuyên khảo [4]). Ngoài ra sơn dầu pha sáp ong cũng kém bền vững khi vẽ trên các vật liệu đỡ mềm như canvas, vì thế chỉ nên dùng vẽ trên các vật liệu cứng như gỗ, hay canvas dán lên gỗ, v.v. Pha sáp ong còn khiến mặt sơn trông mờ (matt), không bóng và thiếu độ sâu.

oil

Thành phần các acid béo trong dầu tạo màng

8) Daler Rowney:

Hãng này sản xuất 3 loại sơn dầu: i) Artists’, ii) Georgian, và iii) Graduate. Pigments được nghiền trong dầu lanh và sáp ong.

i) Artists’ là loại sơn dầu cho hoạ sĩ chuyên nghiệp, gồm 83 màu, trong tube 38, 120 ml và hộp 500 ml (màu trắng titanium và kẽm);

ii) Georgian là hạng cho sinh viên, có 54 màu (24 màu đơn sắc tố), trong tubes 22, 38 và 120 ml;

iii) Graduate là hạng cho sinh viên, có 42 màu (22 màu là đơn sắc tố), trong tubes 38, 120, và 200 ml.

9) Pébéo: 

Lúc mới khởi nghiệp vào năm 1919, hãng này là một phòng thí nghiệm hóa chất của nhà hoá học và hoạ sĩ Pháp Claudius Chaveau, chuyên tổng hợp oxide chì (PbO) bán cho các nước tại châu Âu. Vì thế mà thành cái tên Pébéo (pê-bê-ô là cách người Pháp đánh vần PbO).

Hãng này sản xuất 3 loại sơn dầu: i) Fragonard Extra Fine, ii) Huile d’Art Superfine, iii) Studio Fine XL, trong tubes 37, 80 và 200 ml. Sáp ong cũng được thêm vào khi nghiền pigments.

i) Fragonard Extra Fine là loại dành cho hoạ sĩ chuyên nghiệp, gổm 103 màu;

ii) Huile d’Art Superfine gồm 60 màu;

iii) Studio Fine XL là hạng cho sinh viên, gồm 64 màu.

Như đã giải thích trong chuyên khảo [4] (trang 24), giá màu phụ thuộc vào giá của từng sắc tố, được phân loại theo series numbers, số càng to giá càng đắt. Hạng cho hoạ sĩ chuyên nghiệp thường có các màu với series numbers to (5, 6), trong khi hạng cho sinh viên và hoạ sĩ nghiệp dư chỉ gồm các series numbers nhỏ (1, 2). Màu không có series number là màu có giá đồng hạng. Cách chia series numbers có thể hơi khác nhau phụ thuộc vào hãng, ví dụ Winsor & Newton có series numbers từ 1 tới 6, Royal Talens: từ 1 tới 5, trong đó sơn dầu Rembrandt có series numbers từ 1 tới 5, còn sơn dầu Van Gogh chỉ có 1 và 2.

Bảng dưới đây minh hoạ sự khác nhau về giá theo series numbers (SN) của Royal Talens (tube 40 ml) theo Dick Blick Art Material:

series

Minh hoạ trên cho thấy màu có cùng series number nhưng khác hạng có giá rất khác nhau, ví dụ trắng titanium Van Gogh có giá chỉ bằng nửa trắng titianium Rembrandt.

Một số hãng không dùng số mà dùng chữ cái để đánh dấu series: như Old Holland từ A đến F (6 bậc) – series A rẻ nhất, F đắt nhất, hay Holbein: A, B, C, D, …. (6 hoặc 8 bậc) – series có chữ cái càng đằng sau càng đắt.

Có thể so sánh giá của các nhãn hiệu khác nhau qua giá của cùng một màu sơn dầu đơn sắc tố, ví dụ như cadmium đỏ.

Giá của sơn dầu cadmium đỏ

(chia trung bình cho 20 ml)

1) Old Holland

Classic: 26.2 USD (giá tại Dick Blick Art Material)

2) Lefranc & Bourgeois 

i) Lefranc: 18.4 USD (giá bán tại Sekaido [5], đổi ra USD theo 1 USD = 100 yen)

ii) Fine: (mô phỏng ̣) 1.84 USD (giá trên mạng)

iii) Louvre: (đỏ sơ cấp) 2.0 USD (giá trên mạng)

3) Winsor & Newton (giá bán tại Sekaido)

i) Artists’: 7.4 USD

ii) Winton: (màu mô phỏng) 0.84 USD

4) Sennelier

(giá tại Dick Blick Art Material)

i) Huile Extra Fine: 13 USD

ii) Huile Étude: (màu mô phỏng): 3.3 USD

5) Royal Talens

i) Rembrandt:  8.8 USD  (giá bán tại Sekaido)

ii) Van Gogh:  4.5 USD (giá trên mạng)

Trước đây Royal Talens có sản xuất sơn dầu nhãn hiệu Amsterdam, nay trên website của bản hãng nhãn hiệu Amsterdam chỉ dành cho màu acrylic. Có lẽ Royal Talens đã ngừng sản xuất nhãn hiệu này cho sơn dầu. Tuy vậy các chi nhánh như Talens Japan ở Nhật vẫn còn bán sơn dầu Amsterdam, gồm 35 màu, trong tube 200 ml, giá đồng hạng 1470 yen theo bảng giá, nhưng giá bán thực chỉ có 960 yen (hoặc tại đây), tức trung bình chưa tới 1 USD/20 ml, tương đương giá màu Winton mô phỏng đỏ cadmium cho sinh viên của Winsor & Newton.

6) Holbein (theo bảng giá của bản hãng, cao hơn giá bán tại Sekaido khoảng 30%)

i) Artists’ : 10.3 USD

ii) POP Ecolse: 2.6 USD

iii) Water Soluble “Duo” (màu mô phỏng): 4 USD

iv) Vernet: 18.9 USD

v) Yuichi: 43 USD

7) Lukas (giá trên mạng)

i) 1862: 5.4 USD

ii) Studio (màu mô phỏng): 1.1 USD

iii) Berlin (hòa được với nước): 2.3 USD

iv) Terzia (màu mô phỏng): 0.8 USD

8) Daler Rowney (giá trên mạng)

i) Artists’: 4 USD

ii) Georgian (màu mô phỏng): 2 USD

iii) Graduate (màu mô phỏng): 0.83 USD

9) Pébéo (giá trên mạng)

i) Fragonard Extra Fine: 17.7 USD

ii) Huile D’art Superfine: 3.6 USD

iii) Studio Fine XL (màu mô phỏng): 2.3 USD

Màu tốt không biến một người vẽ kém thành vẽ giỏi. Nhưng nếu bạn là một nghệ sĩ, quan tâm tới việc thể hiện được tất cả tài năng của mình, tới sự trường tồn của tác phẩm của mình, cũng như hiệu quả của nó đối với công chúng và trách nhiệm của mình đối với những người sưu tập tranh, thì việc lựa chọn dùng màu chất lượng cao (màu cho hoạ sĩ chuyên nghiệp tức artist grade) bao giờ cũng là lựa chọn đúng nhất.

Người đăng: Phạm Kim Bình (sưu tầm)

Tags: