Tác giả: Nguyễn Xuân Thủy
Thành phần tham gia cuộc đi thực tế: gồm 38 Người, Là họa sĩ đã có nhiều thành tích và cống hiến cho Hội Mỹ thuật Hà Nội.
1. Mục đích của chuyến đi:
Thực hiện chương trình kế hoạch hoạt động nghệ thuật năm 2025 của Hội Mỹ thuật Hà Nội, ban chấp hành Hội Mỹ thuật Hà nội đã ra Đề xuất số: 9/ĐX-HMT Ngày 9/5/2025 tổ chức chuyến đi thực tế sáng tác 02 ngày 1 đêm, Tại Tuyên Quang để lấy tài liệu làm tư liệu về làm đề tài sáng tác cho chương trình hoạt động nghệ thuật năm 2025.
2. Quá trình đi thực tế, chụp ảnh, ghi chép lấy tư liệu Di tích Các điểm tại Hòa Bình.
Đoàn đã ký họa trực tiếp cảnh Di tích Cây đa Tân Trào tại làng Tân Lập,Xã Tân Trào, Huyện Sơn Dương – Tuyên Quang và văn Hóa của Bản Khiển, Thị Trấn Lăng Can, Huyện Lâm Bình – Tuyên Quang. Thăm Lòng Hồ Thủy Điện Na Hang, Huyện Lâm Bình – Tuyên Quang. Làm các nghệ sĩ hiểu thêm về công trình và địa danh, phong tục của các dân tộc Việt Nam, những tên địa danh đã đi vào Lịch sử đất nước.
Đoàn tham gia giao lưu đốt lửa trại cùng đoàn ca múa dân tộc vùng Bản Khiển, Thị Trấn Lăng Can, Huyện Lâm Bình – Tuyên Quang.
3. Kết quả chuyến đi
+ Chuyến đi đã được ban tổ chức hội Mỹ thuật, chuẩn bị rất cẩn thận và chu đáo, chụp và ký họa được nhiều nét đẹp của Việt Nam.
I - Địa điểm đến đầu tiên của đoàn là Di tích Cây đa Tân Trào tại làng Tân Lập,Xã Tân Trào, Huyện Sơn Dương – Tuyên Quang
Cây đa Tân Trào Tuyên Quang được xem là chứng nhân lịch sử của dân tộc, đã ghi dấu một mốc son chói lọi. Chính dưới bóng cây đa cổ thụ này, vào chiều ngày 16 tháng 8 năm 1945, Quân đội nhân dân Việt Nam đã làm lễ xuất quân hào hùng, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc. Trước sự chứng kiến của đông đảo đại biểu toàn quốc và nhân dân địa phương, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đọc bản Quân lệnh số 1, thúc giục quân đội tiến về giải phóng Thủ đô Hà Nội.
Cây đa Tân Trào là biểu tượng của Thủ đô kháng chiến, Thủ đô Khu giải phóng và là niềm tự hào của người dân Tuyên Quang nói riêng và cả nước nói chung. Hình ảnh cây đa cổ thụ không chỉ khắc sâu trong tâm trí mỗi người dân Việt Nam mà còn được các nghệ sĩ đưa vào thơ ca, nhạc họa, trở thành nguồn cảm hứng bất tận.
Với tổng diện tích lên tới 560 km2, Tân Trào là một trong những khu di tích lịch sử lớn và quan trọng của đất nước. Ngoài cây đa Tân Trào, bên trong khu di tích còn có 18 di tích và danh thắng tiêu biểu đã được công nhận là di tích cấp quốc gia. Khu di tích Tân Trào là nơi chứng kiến sự ra đời của nhiều quyết sách quan trọng do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung ương Đảng đưa ra, góp phần định hình vận mệnh của đất nước trong những thời khắc lịch sử quyết định. Dưới đây là một số điểm tham quan tiêu biểu tại khu di tích lịch sử Tân Trào mà bạn không nên bỏ qua!
Đình Tân Trào còn được biết đến với tên gọi khác là đình Kim Long. Đình được xây dựng vào năm 1923, có kết cấu nhà sàn với cột gỗ, ba gian hai chái, mái lợp lá cọ và nền lát gạch. Đây không chỉ là nơi sinh hoạt văn hóa mà còn đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của người dân trong làng.
Đình Tân Trào thờ cúng tám vị chủ làng, tượng trưng cho thần sông núi của làng Tân Lập, phản ánh tâm linh và văn hóa đặc sắc của cộng đồng dân cư nơi đây. Đặc biệt, ngôi đình này cũng là nơi Bác Hồ kêu gọi toàn dân đứng lên giải phóng đất nước khỏi ách thống trị của thực dân Pháp. Cùng với cây đa Tân Trào, đình Tân Trào cũng trở thành niềm tự hào của người dân Tuyên Quang.
Di tích cây đa Tân Trào: chiều ngày 16/8/1945, tại địa điểm này, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã thay mặt Uỷ ban Khởi nghĩa Toàn quốc đọc Bản Quân lệnh số 1 và hạ lệnh xuất quân tiến về Hà Nội.
Di tích đình Tân Trào: đình Tân Trào là nơi tổ chức họp Quốc dân Đại hội (ngày 16 và 17/8/1945) - đại hội được ví như Hội nghị Diên Hồng thứ hai trong lịch sử nước ta.
Di tích đình Hồng Thái: đình Hồng Thái là địa điểm dừng chân đầu tiên của Bác Hồ khi từ Pắc Bó về Tân Trào (ngày 21/5/1945). Địa điểm này cũng là trụ sở của Ban Bảo vệ An toàn khu, của bộ phận tiếp tế và là nơi đón tiếp đại biểu về dự các hội nghị của Đảng.
Cụm di tích trụ sở Phân khu Nguyễn Huệ: tháng 3 năm 1945, Khu uỷ Phân khu Nguyễn Huệ được chuyển về thôn Ao Búc, xã Trung Yên. Tại đây, Khu ủy đã quyết định thành lập chính quyền cách mạng (ngày 10/3/1945) và thành lập Uỷ ban Lâm thời Châu Tự Do - chính quyền cách mạng đầu tiên trong cả nước (ngày 16/3/1945).
Cụm di tích Văn phòng Chủ tịch phủ - Thủ tướng phủ: là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chính phủ đã bàn bạc và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước trong thời kỳ này, trên các lĩnh vực nội chính, kinh tế, tài chính, văn hoá - xã hội...
Di tích Ban Tổ chức Trung ương: Ban Đảng Vụ cùng Trung ương Đảng (sau này đổi tên thành Ban Tổ chức Trung ương) đã ở và làm việc tại đây vào cuối năm 1949 và từ tháng 4 năm 1951 đến cuối năm 1953.
Di tích Ban Nông vận Trung ương: tháng 5 năm 1952, Ban Nông vận Trung ương chuyển đến ở và làm việc tại khu Ao Rừm, thôn Tân Lập, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương.
Di tích Ban Tuyên huấn Trung ương: Ban Tuyên truyền của Đảng (sau này đổi tên thành Ban Tuyên huấn Trung ương) đã từng ở và làm việc trên một quả đồi tại thôn Thia.
Di tích Việt Nam Thông tấn xã: trong hơn hai năm (kể từ năm 1952), Việt Nam Thông tấn xã đã đóng tại thôn Hoàng Lâu, xã Trung Yên, huyện Sơn Dương để tuyên truyền, khích lệ nhân dân diệt giặc đói, giặc dốt và thông tin liên lạc phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Di tích Bộ Nội vụ: năm 1948, Bộ Nội vụ chuyển đến ở và làm việc tại thôn Yên Thượng, xã Trung Yên, huyện Sơn Dương và đã chỉ đạo công tác bảo vệ an toàn cho Trung ương Đảng, Bác Hồ và Chính phủ.
Di tích hầm và lán an toàn của Chủ tịch Tôn Đức Thắng: đồng chí Tôn Đức Thắng đã ở và làm việc tại thôn Chi Liền, xã Trung Yên, huyện Sơn Dương từ cuối năm 1952 đến tháng 7 năm 1954. Trong thời gian này, đồng chí đã chủ trì Hội nghị Liên tịch giữa Ban Thường trực Quốc hội với Ủy ban Liên Việt (tháng 02 năm 1953), Hội nghị Toàn quốc của Ủy ban Liên Việt (tháng 11 năm 1953), Kỳ họp lần thứ ba của Quốc hội Khóa I (từ ngày 01 đến ngày 04 tháng 12 năm 1953) và nhiều cuộc họp quan trọng khác...
Di tích Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam: từ giữa năm 1952 đến tháng 8 năm 1954, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã ở và làm việc tại thôn Cầu, xã Minh Thanh, huyện Sơn Dương.
Di tích Bộ Ngoại giao: một thời gian ngắn đầu năm 1947, Bộ Ngoại giao chuyển đến ở và làm việc tại làng Hản, xã Kim Quan, huyện Yên Sơn. Sau đó, Bộ chuyển về xóm Dõn, xã Minh Thanh, huyện Sơn Dương.
Di tích Nha Công an: tháng 4 năm 1947, Nha Công an Trung ương chuyển từ Phú Thọ đến “Nhà ông cả Nhã”, thôn Đồng Đon, xã Minh Thanh. Đây là nơi đóng quân đâu tiên và trong thời gian dài nhất của Nha Công an Trung ương trong kháng chiến chống Pháp.
Di tích Nha Thông tin: Nha Thông tin được đặt tại thôn Mới, xã Minh Thanh, huyện Sơn Dương năm 1951. Tại đây, những bản tin, bài thơ, bài hát cách mạng... đã được đăng tải trên đài phát thanh, phản ánh trung thực đời sống tinh thần, tình hình chiến sự của đất nước và tuyên truyền đường lối kháng chiến của Đảng, Chính phủ đến nhân dân.
Di tích Bộ Tư pháp: từ cuối năm 1949 đến tháng 9 năm 1950, Bộ Tư pháp đã ở và làm việc tại thôn Mới, xã Minh Thanh, huyện Sơn Dương.
Cụm di tích Kim Quan, thôn Khuôn Điển, xã Kim Quan, huyện Yên Sơn bao gồm: di tích lán ở, làm việc và hầm an toàn của Chủ tịch Hồ Chí Minh; di tích hầm an toàn của Chính phủ; di tích hầm an toàn của Trung ương Đảng; di tích Văn phòng Trung ương.
Ngoài ra, trong khu vực di tích hiện nay còn là nơi diễn ra nhiều sinh hoạt văn hoá đặc sắc của đồng bào các dân tộc, nơi lưu giữ nhiều hiện vật liên quan đến quá trình hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các cơ quan Trung ương trong thời kỳ tiền khởi nghĩa và thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp...
Với những giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học đặc biệt của khu di tích, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Khu di tích lịch sử Tân Trào (huyện Sơn Dương và huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang) là di tích quốc gia đặc biệt (Quyết định số 548/QĐ-TTg, ngày 10/5/2012)
Du lịch sinh thái là loại hình du lịch diễn ra trong các vùng có hệ sinh thái tự nhiên nhằm mục đích nghiên cứu, chiêm ngưỡng, thưởng thức phong cảnh, động thực vật cũng như các giá trị văn hóa hiện hữu. Hiện nay, Na Hang đang hội đủ những yếu tố làm nên một quần thể du lịch sinh thái mang tầm cỡ quốc gia mà ít nơi có được. Đây là lợi thế để phát triển loại hình du lịch văn hóa dân tộc dân gian hấp dẫn khách du lịch, đặc biệt du lịch sinh thái, du lịch mạo hiểm và du lịch hồ thủy điện Tuyên Quang.
Núi “Cọc Vài” trên hồ thủy điện Tuyên Quang
Trước hết nói về rừng, Tuyên Quang là một trong 3 tỉnh có mật độ rừng che phủ lớn nhất cả nước thì riêng với Na Hang là huyện rừng có mật độ che phủ cao nhất toàn tỉnh, chiếm 71% diện tích đất tự nhiên toàn huyện, có giá trị về kinh tế, có ý nghĩa quan trọng trong việc phòng hộ và bảo vệ môi trường sinh thái. Tại đây có Khu bảo tồn thiên nhiên Tát Kẻ - Bản Bung với diện tích bảo tồn được phê duyệt là 42.000 ha. Khu bảo tồn thiên nhiên Tát Kẻ - Bản Bung được chia cắt bởi sông Năng và sông Gâm. Hệ thống suối của hai con sông này tạo thành hệ thủy vực quan trọng của khu bảo tồn. Rừng ở đây phong phú về hệ động thực vật quý hiếm (gồm 40 loài thú, 70 loài chim, 20 loài bò sát và 17 loài thực vật bậc cao), tiêu biểu là các loài động vật nằm trong sách đỏ như: Voọc mũi hếch, voọc đen má trắng, gấu ngựa…, hay những cây gỗ đinh, nghiến, trai... quý hiếm hàng nghìn năm tuổi. Khu bảo tồn có vai trò đặc biệt quan trọng là bảo vệ nguồn nước cho hồ thủy điện Tuyên Quang, điều tiết lũ ở vùng hạ lưu và chắc chắn đây chính là điểm du lịch sinh thái, mạo hiểm vô cùng hấp dẫn.
Đến Na Hang chắc chắn sẽ không ai bỏ lỡ cơ hội đi du thuyền trên hồ thủy điện Tuyên Quang, để được đắm mình với thiên nhiên mênh mông sông nước, trùng điệp núi rừng, được nghe những câu chuyện kể về sự tích gắn với từng địa danh nơi đây. Trên đường đi vãn cảnh lòng hồ, quý khách sẽ được ghé thăm thác Pắc Ban (thác Mơ) kỳ ảo, thơ mộng được xếp hạng là thắng cảnh Quốc gia. Theo những người dân nơi đây kể lại, truyền thuyết về thác Mơ là câu chuyện đầy cảm động về vợ chồng nàng Mơ sinh sống dưới chân núi Pắc Ban. Một ngày, người chồng đi hái thuốc trong rừng mà mãi không về. Nàng Mơ băng rừng đi tìm chồng nhiều ngày rồi lạc trong rừng. Một ngày kia, nàng hóa thành một dòng thác trắng xóa. Dọc đường, quý khách sẽ được tận mắt ngắm nhìn Khu bảo tồn thiên nhiên Tát Kẻ - Bản Bung, ghé thăm thác Khuẩy Súng, Khuẩy Nhi, Khuẩy Me, thăm hang Phia Vài (hang người Việt cổ, nơi phát hiện ra hai di tích mộ táng và một di tích bếp lửa thuộc thời đồ đá khoảng 10.000 năm)... Những cánh rừng nguyên sinh có cây nghiến nghìn năm tuổi và loài voọc mũi hếch được ghi trong sách đỏ thế giới.
Phóng xa tầm mắt quý khách sẽ thấy núi Pắc Tạ, ngọn núi cao nhất của huyện Na Hang có hình chú voi đang đứng bên nậm rượu. Xa chút nữa là núi Xa Tạ hay còn gọi là núi Côn Lôn. Câu chuyện truyền thuyết về núi Pắc Tạ kể về chú voi nghiện rượu có công đánh giặc và được vua phong là Voi quận công hóa đá. Chân núi Pắc Tạ có đền thờ vị thiếp của Tướng quân Trần Nhật Duật. Bà theo chồng kinh lý vùng sông Gâm và sông Năng và bị tử nạn, đã được một người họ Ma vớt, táng ngay chân núi. Vua cho dựng đền thờ ngay tại nơi chôn cất và giao cho người họ Ma trông coi. Người dân nơi đây nói rằng, ngôi đền này rất thiêng và du khách khắp nơi thường đến nơi đây cầu nguyện. Cũng trên đường du ngoạn bằng thuyền, du khách sẽ ghé thăm và thắp hương ngôi đền Pắc Vãng là nơi thờ Quan đế đại thần và thờ Mẫu.
Đi dọc sông từ Thượng Lâm, giữa cảnh sông nước núi non hùng vĩ, là sừng sững chiếc “cọc Vài” đá (tiếng Tày nghĩa là cọc buộc trâu) gắn với sự tích chàng Tài Ngào. Đi tiếp nữa là gặp thác Nậm Mè (nghĩa là suối mẹ). Từ đoạn hợp lưu giữa sông Gâm với sông Năng là một vùng sông nước, núi non hùng vĩ với những bóng cây cổ thụ của những cánh rừng nguyên sinh đổ xuống mặt nước. Bên bờ trái đoạn chia cắt thị trấn Na Hang với xã Trùng Khánh (cũ) có vách đá tên gọi là “Nàng Tiên - Chú Khách”. Du khách có thể hình dung trên vách đá có hình ảnh Nàng Tiên - Chú Khách đang chơi vơi giữa chốn bồng lai tiên cảnh và hạ giới. Vách đá này cũng gắn liền truyền thuyết rất hay và cảm động. Đến đây quý khách còn được nghe về sự tích hoa Phạc Phiền, một loài hoa cỏ tiên có hương thơm ngào ngạt có thể chữa được mọi ưu phiền làm cho người khỏi bệnh. Tiếp đến du khách sẽ gặp những thác nước như Tin Tát, Đén Luông, Đén Lang đổ như mái tóc của người thiếu nữ buông xuống rừng cây đại ngàn, tạo thành bức tranh tuyệt mỹ.
Tạo hóa nơi đây báo hiệu cho người dân một quy luật rất nghiêm ngặt khi đi thuyền mảng trên sông vào mùa lũ. Đó là trên vách đá có những lỗ nhỏ gọi là Đăng Vài (có nghĩa là mũi trâu). Cứ vào mùa lũ, bà con có kinh nghiệm hễ nước sông thấp hơn mũi trâu thì có thể qua được còn nếu ngập ngang mũi trâu phát ra tiếng nước réo (trâu thở) thì rất nguy hiểm, thuyền bè không qua được. Đoạn sông Năng qua xã Đà Vị người ta không gọi là sông Năng mà gọi là sông Ngang, đến thượng nguồn sông Gâm có Núi Đổ. Sông Ngang, Núi Đổ nghe như có vẻ thiên nhiên thật hung dữ thách thức sự chinh phục của con người. Nhưng hết mùa lũ sông lại hiền hòa như bàn tay người mẹ bồi đắp phù sa cho những cánh đồng tươi tốt.
Na Hang được biết đến bởi sức cuốn hút kỳ lạ của một vùng văn hóa đa dân tộc (có 12 dân tộc anh em) như: Tày, Dao, Mông... Các dân tộc ở Na Hang đã tạo nên một kho tàng văn hóa phong phú, đậm đà bản sắc, một vùng âm nhạc dân gian độc đáo với những làn điệu then, sli, lượn... cùng với tiếng đàn tính, tiếng kèn làm say đắm lòng người. Na Hang ngoài phong cảnh thiên nhiên sơn thủy hữu tình, vùng văn hóa đa dạng, còn hấp dẫn du khách bởi những món ăn mang đậm bản sắc dân tộc, các món cá đặc sản của vùng hồ. Đặc biệt, Na Hang có rượu ngô men lá ngon nổi tiếng. Thứ rượu này uống bao nhiêu cũng chỉ lâng lâng mà không say xỉn. Để làm được thứ rượu thơm ngon này, phải qua một quy trình rất công phu. Nếu ai đã từng được thưởng thức thứ rượu thơm ngon nơi đây, có lẽ sẽ nhớ mãi cái hương vị đậm đà khó quên này. Nhằm phát huy giá trị văn hóa và tạo sự hấp dẫn thu hút du khách, Ban Quản lý Khu du lịch sinh thái Na Hang đang phối hợp với chính quyền các địa phương triển khai xây dựng các điểm du lịch làng văn hóa Nà Tông ở xã Thượng Lâm, bản Phiêng Bung ở xã Năng Khả, bản Lục ở xã Đà Vị...
Trong những năm gần đây, Na Hang đã và đang trở thành một trung tâm buôn bán với nhiều hoạt động du lịch sinh thái nhộn nhịp. Hàng năm, huyện tiếp đón hàng vạn du khách trong và ngoài nước, số lượng khách đang ngày một gia tăng
+ Cả đoàn đã có chuyến đi rất bổ ích và đã ghi chép được nhiều tư liệu quý để làm hành trang cho việc sáng tác những tác phẩm nghệ thuật phục vụ cho chương trình kế hoạch hoạt động năm 2025-2026 của Hội Mỹ thuật Hà Nội.
Trên đây là một số cảm nghĩ và ghi chép của tôi, về chuyến đi thực tế sáng tác của anh em nghệ sĩ hội Mỹ thuật Hà Nội, 02 ngày 1 đêm tại tỉnh Tuyên Quang đã thành công tốt đẹp. Hi vọng triển lãm Mỹ thuật Thủ đô năm 2025, anh em sẽ có nhiều tác phẩm có chất lượng nghệ thuật cao, và ý nghĩa./.
NĐK – Nguyễn Xuân Thủy