Tác giả: Nguyễn Hữu Hạnh (sưu tầm)
Nghệ thuật hiện đại nổi tiếng với tính thẩm mỹ tiên phong và được tôn vinh vì những nghệ sĩ có tư duy tiến bộ. Phát triển trong khoảng 100 năm, Nghệ thuật hiện đại kết hợp nhiều phong trào nghệ thuật lớn và chắc chắn đã chứng kiến một loạt các phong cách chiết trung.
Đừng nhầm lẫn với nghệ thuật đương đại, “Nghệ thuật Hiện đại” đề cập đến nghệ thuật giai đoạn từ những năm 1860 – 1970. Các tác phẩm được sáng tác trong thời gian này thể hiện sự quan tâm của các nghệ sĩ trong việc tưởng tượng lại, diễn giải lại và thậm chí từ chối các giá trị thẩm mỹ truyền thống của các phong cách trước đó.
Các nghệ sĩ Hiện đại thể nghiệm với những cách nhìn mới và với những ý tưởng mới về bản chất vật liệu và các chức năng của nghệ thuật. Nghệ thuật Hiện đại có xu hướng xa rời tính tự sự (vốn dĩ là đặc trưng của nền nghệ thuật truyền thống) để hướng tới tính trừu tượng.
Bắt đầu với Chủ nghĩa Ấn tượng nhẹ nhàng và thoáng đãng và kết thúc bằng Chủ nghĩa Biểu hiện Trừu tượng tràn đầy năng lượng, thể loại nghệ thuật hiện đại bao gồm một số phong trào chính như sau:
Được nhiều người coi là chất xúc tác cho nghệ thuật hiện đại, trường phái Ấn tượng thách thức các quy tắc cứng nhắc và mô tả hiện thực của hội họa hàn lâm. Phong trào nổi lên vào năm 1872, khi Claude Monet sử dụng một cách sáng tạo các nét vẽ mờ, tập trung vào ánh sáng và bảng màu sống động để vẽ tác phẩm “Ấn tượng, mặt trời mọc”.
Phong cách này thống trị hội họa Pháp cho đến đầu thế kỷ 20, với các nghệ sĩ trường phái Ấn tượng như Monet, Pierre-Auguste Renoir, và Edgar Degas đi đầu.
Lấy cảm hứng từ sự tự do nghệ thuật được giới thiệu bởi các nghệ sĩ trường phái Ấn tượng, các nghệ sĩ như Paul Cézanne, Paul Gauguin, Vincent van Gogh và Henri Toulouse-Lautrec đã bắt đầu làm việc với những phong cách độc đáo, trái với thông lệ.
Được gọi là Chủ nghĩa Hậu Ấn tượng, phong trào đầy màu sắc này bắt đầu vào những năm 1890 và chú trọng đến cảm xúc và sự yêu thích thể hiện chủ quan hơn là tả thực.
Được thành lập bởi nhóm les Fauves – một nhóm nghệ sĩ tiên phong bao gồm André Derain và Henri Matisse – trường phái Dã thú xuất hiện lần đầu tiên vào đầu thế kỷ 20.
Giống như những người theo trường phái Hậu ấn tượng, những người theo chủ nghĩa Dã thú ưa thích những tông màu phi thực tế và nhấn mạnh vào nhận thức của từng cá nhân trong mô tả của họ, thường có những hình thức dễ nhận biết (nhưng hơi trừu tượng).
Không lâu trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, các họa sĩ ở Đức và Áo bắt đầu áp dụng cách tiếp cận thử nghiệm mới đối với thường lệ của họ. Được gọi là Người theo chủ nghĩa Biểu hiện, những nghệ sĩ này đã tiếp nhận và điều chỉnh những đặc điểm chưa từng có của các phong trào hiện đại khác.
Giống như các tác phẩm nghệ thuật theo trường phái Hậu ấn tượng và Chủ nghĩa Dã thú, các tác phẩm được thể hiện theo Chủ nghĩa Biểu hiện truyền tải sự mê hoặc với màu sắc nhân tạo tươi sáng và hình tượng theo chủ nghĩa cá nhân.
Các họa sỹ tiền thân của trường phái Biểu hiện có thể kể tới như Edvard Munch, James Ensor, Sigmund Freud …
Được đặc trưng bởi các hình thức phá cách, Chủ nghĩa Lập thể đánh dấu sự chuyển hướng của nghệ thuật hiện đại sang trừu tượng.
Người họa sĩ không quan sát đối tượng ở một góc nhìn cố định mà lại phân chia thành nhiều mặt khác nhau, nhiều khía cạnh khác nhau, với các bề mặt, các mặt phẳng giao với nhau không theo các quy tắc phối cảnh làm cho người xem khó nhận ra chiều sâu của bức tranh.
Được tiên phong vào năm 1907 bởi Georges Braque và Pablo Picasso, phong trào tiên phong hiện thực hóa như những bức tranh rối ren, tác phẩm điêu khắc đa chiều và ảnh ghép tiên tiến.
Giống như các trào lưu nghệ thuật hiện đại khác, Chủ nghĩa Lập thể nhấn mạnh một cách tiếp cận chủ quan để sáng tạo. “Khi chúng tôi khám phá ra Chủ nghĩa Lập thể,” Picasso giải thích, “chúng tôi không có mục đích khám phá Chủ nghĩa Lập thể. Chúng tôi chỉ muốn thể hiện những gì đã có trong chúng tôi.”
Vào những năm 1920, các nghệ sĩ thị giác Salvador Dalí, Max Ernst, Man Ray, Joan Miró và Yves Tanguy đã cùng nhau thành lập Chủ nghĩa siêu thực, một phong trào bắt nguồn từ tiềm thức.
Thiếu “bất kỳ sự kiểm soát nào được thực hiện bởi lý trí, miễn trừ bất kỳ mối quan tâm thẩm mỹ hoặc đạo đức nào” (André Breton, Tuyên ngôn của Chủ nghĩa siêu thực), thể loại này đã lên đến đỉnh điểm trong một bộ sưu tập đa dạng các mô tả giống như giấc mơ từ trí tưởng tượng của các nghệ sĩ.
Vào giữa thế kỷ 20, một nhóm nghệ sĩ sáng tạo đã tiên phong cho các phong cách hội họa tượng hình cho một trường phái thẩm mỹ trừu tượng, nguyên bản. Những họa sĩ theo trường phái Biểu hiện Trừu tượng đặt trọng tâm nghệ thuật không chỉ vào các đặc điểm của chủ nghĩa hiện đại như màu sắc, bố cục và cảm xúc mà còn vào chính quá trình sáng tạo.
Do tính chất thử nghiệm và các chủ đề trùng lặp của Nghệ thuật Hiện đại và Nghệ thuật đương đại, hai phong cách nghệ thuật này thường bị nhầm lẫn với nhau. Tuy nhiên, khi phân biệt được các phong trào tạo ra các phong trào khác, thì những đường nét mơ hồ, mờ nhạt để phân biệt chúng sẽ trở nên rõ ràng hơn.
Thông thường, nghệ thuật hiện đại được hiểu là bao gồm Chủ nghĩa Ấn tượng đến Chủ nghĩa Biểu hiện Trừu tượng và các phong cách ở giữa. Do đó, Nghệ thuật đương đại bắt đầu với phong trào lớn đầu tiên theo sau chủ nghĩa hiện đại – Nghệ thuật đại chúng – và tất nhiên, tiếp tục cho đến ngày nay.
TONG HOP