Năm sinh: 10/12/1917 tại Hà Nội
Năm mất: 01/12/2011
Phong cách nghệ thuật: Điêu khắc
Các tác phẩm chính: Chân dung Hồ chủ tịch, Bác Hồ viết Tuyên Ngôn Độc Lập, Nữ du kích, Thiếu nữ Đức, Công nhân mỏ, Cô xã viên, Nữ du kích miền Nam, Mười một cô gái thành phố Huế, Hạnh phúc
Bà sinh năm 1917 tại Hà Nội. Cha bà là Nguyễn Văn Khải, cũng là một hoạ sĩ. Năm 1937, bà theo học lớp bàng thính của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương do hoạ sĩ Nam Sơn phụ trách. Sau hai năm học, bà thi và trúng tuyển vào học khoá 13 (1939 – 1944) cùng với Nguyễn Sỹ Ngọc, Huỳnh Văn Thuận, Trần Đình Thọ, Phạm Văn Đôn, Nguyễn Trọng Hợp… Sau khi tốt nghiệp bà kết hôn với họa sĩ Phạm Văn Đôn.
Ngay trong thời kỳ đầu học tập tại trường, bà đã tham gia hoạt động trong ban tuyên truyền, khánh tiết của Hội truyền bá quốc ngữ cùng với một số bạn bè thân như các ông Phạm Văn Khoa, Nguyễn Huy Tưởng, Vương Như Trang… là những người hoạt động văn hoá cứu quốc trong mặt trận Việt Minh. Bà đã tham gia vẽ tranh gửi chiến khu phục vụ việc đón phái đoàn Đồng minh. Trong thời gian là sinh viên bà đã có tác phẩm tham gia Triển lãm Mỹ thuật và đã được tặng giải thưởng năm 1943.
Cách mạng Tháng Tám thành công, nhà điêu khắc Nguyễn Thị Kim cùng chồng là họa sĩ Phạm Văn Đôn là thành viên của Hội Văn hoá cứu quốc trong Ban biên tập Tạp chí Tiền Phong – cơ quan ngôn luận của Hội Văn hoá cứu quốc, đồng thời vẽ tranh cổ động và triển lãm phục vụ kịp thời những yêu cầu của cách mạng. Bà nói: “Cách mạng Tháng Tám đã mở ra một chân trời xán lạn cho các nghệ sĩ, trong đó có tôi. Con đường nghệ thuật chói chang ánh sáng cách mạng khiến tôi không khỏi choáng ngợp vì xúc động. Tôi tắm mình trong nguồn ánh sáng trong trẻo ấy và thấy nghề điêu khắc của mình đã đến lúc được cần đến như một thứ vũ khí.”
Năm 1946, Trường Mỹ thuật Việt Nam được thành lập do hoạ sĩ Tô Ngọc Vân làm hiệu trưởng, trụ sở đặt ở phố Lò Đúc, bà được mời làm giảng viên của nhà trường. Cùng thời gian này bà là ủy viên Hội hữu nghị Việt – Pháp và là một trong những sáng lập viên của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Nhà thờ họ của bà tại số 114 phố Bạch Mai, Hà Nội trở thành trụ sở nhà in báo Cờ giải phóng và báo Sự thật.
Tháng 5 năm 1946, với sự giới thiệu của nhà văn Nguyễn Đình Thi, Hội Văn hoá cứu quốc đã cử bà cùng hoạ sĩ Tô Ngọc Vân, Nguyễn Đỗ Cung vào Bắc Bộ Phủ vẽ và nặn tượng chân dung Bác Hồ. Bà kể: “Phòng làm việc của Bác thoáng đãng, sàn gỗ đánh xi bóng lộn. Tôi xin mang theo một cái giá khá nặng và một cái hòm gỗ thông đựng đất sét. Thấy căn phòng quá sạch sẽ, tôi lúng túng không dám bước vào. Bác biết ý, cho người kiếm một cái chiếu để ‘cô Kim để giá và hòm đất’. Sau hơn mười ngày miệt mài lao động, tôi hoàn thành tượng Bác, tác phẩm quan trọng trong cuộc đời nghệ thuật của tôi…” . Bức tượng đồng Chân dung Hồ Chủ tịch cùng với bức tượng Tự vệ thành Hà Nội đã được trưng bày trong Triển lãm Mỹ thuật Tháng Tám năm 1946. Tượng Tự vệ thành đã được tặng giải thưởng của triển lãm. Về bức tượng Chân dung Hồ Chủ tịch, trước ngày toàn quốc kháng chiến, gia đình bà đã bảo quản chôn giấu trong vườn nhà cho đến ngày Giải phóng Thủ đô năm 1954 mới được lấy lên, sau này được lưu giữ tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam.
Từ năm 1947 – 1953, bà là giảng viên Trường Thiếu sinh quân liên khu IV, Trường Văn hoá kháng chiến ở liên khu IV. Bà là thành viên Ban chấp hành của Hội Phụ nữ Việt Nam. Ngoài ra bà còn làm trang trí sân khấu, hoá trang cho Đoàn kịch Giải Phóng của Phạm Văn Đôn, Thế Lữ. Nhiều tác phẩm của Nguyễn Thị Kim được trưng bày và bảo quản tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, Bảo tàng Việt Bắc và một số bảo tàng ở Nga, Ba Lan, Pháp… Một số tác phẩm của bà đã được sưu tập ở Việt Nam và nước ngoài.
Sau đó, nhà điêu khắc Nguyễn Thị Kim được điều ra Việt Bắc để công tác tại Doanh nghiệp quốc gia chiếu bóng và chụp ảnh Việt Nam đóng trụ sở tại Thái Nguyên. Cùng với công tác của cơ quan bà đã sáng tác bức phù điêu Bác Hồ và sau đó là bức phù điêu Chiến thắng Điện Biên Phủ. Các tác phẩm Hạnh phúc và Chiến thắng Điện Biên Phủ hiện lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
Sau ngày kí hiệp định Genève, kết thúc chiến tranh ở Việt Nam, nhà điêu khắc Nguyễn Thị Kim đã được Trung ương cử làm đại biểu tham gia Đoàn Hữu nghị Việt – Xô đi thăm Liên Xô. Đoàn do ông Trần Huy Liệu dẫn đầu, trong đoàn có các anh hùng quân đội, chiến sĩ thi đua công nông nghiệp, đại biểu các dân tộc ít người và đại biểu văn nghệ sĩ như Văn Cao, Song Kim… Bà là nhà nữ điêu khắc duy nhất của nước ta từ trước Cách mạng được cử tham gia Đoàn.
Cuộc đời hoạt động nghệ thuật của nghệ sĩ Nguyễn Thị Kim trải dài gắn liền với những biến cố, thăng trầm của đất nước từ những ngày đầu Cách mạng tháng Tám (1945) cho đến khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1975) và đến tận sau này. Bà luôn là một nghệ sĩ của cách mạng, của nhân dân với những tác phẩm điêu khắc giàu sức sống, sinh động và chan chứa nhiệt huyết khắc họa bản chất chân thực đầy chất anh hùng ca của hiện thực cách mạng Việt Nam.
Ở nghệ sĩ Nguyễn Thị Kim, qua những năm tháng với những đóng góp của một công dân, một cán bộ – nghệ sĩ, hay là một người tham gia quản lý – nghệ sĩ (cùng những trọng trách như: Ủy viên Ban Chấp hành Hội Phụ nữ Việt Nam, Ủy ban Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, Ban Chấp hành Hội Mỹ thuật Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội…) Bà luôn là người hoàn thành tốt nhất, trách nhiệm nhất những công việc mình được giao phó góp phần xây dựng, phát triển nền mỹ thuật nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung.
Năm 1954, Thủ đô Hà Nội được hoàn toàn giải phóng, Đoàn Văn nghệ sĩ kháng chiến gồm các hoạ sĩ Huỳnh Văn Thuận, Phạm Văn Đôn, Nguyễn Thị Kim, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, kiến trúc sư Nguyễn Cao Luyện… do ông Nguyễn Bắc dẫn đầu trở về tiếp quản Thủ đô. Vào cuối năm 1954 bà được điều động về Trường Mỹ thuật Việt Nam làm giảng viên điêu khắc. Bà đã có các tác phẩm tham gia các triển lãm mỹ thuật toàn quốc năm 1954 và năm 1955. Cùng với công tác giảng dạy tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam, bà đã sáng tác nhiều tác phẩm điêu khắc như: Bác viết Tuyên ngôn Độc lập, Bảo vệ thiếu nhi – tượng; Chân dung cháu gái – tượng đồng; Tiếp quản Thủ Đô – tượng đất nung và tranh lụa Lúa Miền Nam… Nhiều tác phẩm đã tham gia Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1958 và đã nhận được giải thưởng của triển lãm, lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
Năm 1960, nhà điêu khắc Nguyễn Thị Kim được Nhà nước cử đi thực tập trên đại học tại Viện hàn lâm Mỹ thuật Repin, Leningrad. Trong thời gian này, bà đã sáng tác các tác phẩm điêu khắc Công nhân hầm lò, Công nhân mỏ và Bác Hồ ngồi làm việc (1960). Tiếp đó là các tác phẩm: Thiếu nữ Đức – tượng gang, Cô xã viên – tượng thạch cao, Công nhân Nga – tượng gỗ (1961), Nữ du kích – tượng gỗ,v.v.
Vào tuổi 50, năm 1969, nhà điêu khắc Nguyễn Thị Kim được chuyển về tổ sáng tác trực thuộc Hội Mỹ thuật Việt Nam – một tổ chức dành cho các nghệ sĩ sáng tác – trong tổ có các nhà điêu khắc Nguyễn Hải, Lê Công Thành, các họa sĩ Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liên, Nguyễn Tư Nghiêm, Lưu Công Nhân… cho đến ngày nghỉ hưu. Thời kỳ này, bà đã sáng tác nhiều tác phẩm điêu khắc tượng tròn như: Thảm sát Hướng Điền – thạch cao (1971), hiện lưu giữ tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, Bảo vệ thiếu nhi – thạch cao (1973), Mẹ con – thạch cao (1974).
Cùng với sáng tác, bà còn tham gia nhiều hoạt động xã hội. Bà được bầu vào Ủy viên Ban chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam, Ủy viên Ban chấp hành Hội Mỹ thuật Việt Nam khoá I (1957-1983), Phó Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội, Ủy viên hội đồng nghệ thuật chuyên ngành điêu khắc Hội Mỹ thuật Việt Nam khoá II (1983-1989), Uỷ viên Hội đoàn kết nhân dân Á – Phi, bảo vệ hoà bình thế giới, thành viên Uỷ ban Hoà bình Thành phố Hà Nội. Cuộc đời và sự nghiệp của bà đã để lại cho thế hệ sau những giá trị hết sức to lớn. Người ta nhớ tới bà không chỉ nhờ tài năng mà còn là sự tâm huyết và hết mình vì nghệ thuật nước nhà.
Giải thưởng:
Giải thưởng Mỹ thuật (Năm 1943)
Giải thưởng Triển lãm tháng Tám (Năm 1946)
Giải thưởng Évariste Jonchère (Năm 1997)
Giải thưởng Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc (Năm 1958 và 1995)
Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt II chuyên ngành mỹ thuật (2000)
Giải thưởng Triển lãm Mỹ thuật Thủ đô
TỔNG HỢP