Nguyễn Tư Nghiêm là một tấm gương lao động nghệ thuật, ông vẫn vẽ hàng ngày và nghiêm túc tìm tòi sáng tạo. Cho đến khi ngoài 90 tuổi – tuổi mà nhiều người ngừng sáng tạo – thì Nguyễn Tư Nghiêm vẫn mẫn cán làm việc. Gần như ngày nào ông cũng vẽ. Tác phẩm nào của ông cũng thấm đẫm tình cảm, tài năng và được lưu giữ như báu vật quốc gia tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam
Ngày sinh: 20 tháng 10 năm 1922 (một số tư liệu cho rằng ông sinh năm 1918)
Ngày mất: 15 tháng 6 năm 2016
Giải thưởng: 1944: Giải nhất triển lãm duy nhất, tác phẩm: Cổng làng Mía, Cảnh đồng quê, Người gác Văn Miếu. 1948: Giải nhất Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc kháng chiến, tác phẩm: Du kích làng Phù Lưu. 1957: Giải thưởng triển lãm Mỹ thuật toàn quốc, tác phẩm: Con nghê. 1975: Giải thưởng Triển lãm Mỹ thuật Thủ đô, tác phẩm: Hai đĩa sơn mài. 1985: Giải chính thức Triển lãm Quốc tế nghệ thuật hiện thực ở Sophia (Bulgaria), tác phẩm: Điệu múa cổ I năm. 1987: Giải chính thức Triển lãm Quốc tế ở Hà Nội, tác phẩm; Điệu múa cổ II. 1990: Giải nhất Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc, tác phẩm: Gióng. 1996: Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về văn học nghệ thuật.
Tác phẩm: Xuân hồ Gươm, sơn mài (1957), Người gác Văn Miếu (giải nhất Salon Unique năm 1944), Cổng làng Mông Phụ, Đánh cờ dưới bóng tre, Trạm gác (1948), Con nghé (1957), Xuân Hồ Gươm (1957), Nông dân đấu tranh chống thuế (1960), Điệu múa cổ, Gióng (1990), Mười hai con giáp, Kim Vân Kiều.
Họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm. Ảnh Nguyễn Đình Toán
Họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm sinh ngày 20/10/1922 trong một gia đình có truyền thống Nho học tại Nam Đàn, Nghệ An (một số tư liệu cho rằng ông sinh năm 1918). Từ nhỏ, Nguyễn Tư Nghiêm đã rất thích vẽ. Ông theo anh trai ra Hà Nội tìm họa sĩ Lê Phổ để học vẽ. 19 tuổi, ông đỗ vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. 22 tuổi, Nguyễn Tư Nghiêm tạo tiếng vang khi có tác phẩm được giải nhất tại triển lãm của Salon Unique với bức tranh sơn dầu Người gác Văn Miếu.
Sau năm 1954, Nguyễn Tư Nghiêm công tác tại Hội Văn nghệ Việt Nam. Ông tham gia dạy tại Trung cấp Mỹ nghệ Việt Nam (nay là Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội). Ông giảng dạy một thời gian ngắn rồi tập trung cho sáng tác. Trong khoảng 70 năm sáng tạo, Nguyễn Tư Nghiêm tạo ra khối lượng tác phẩm đồ sộ. Ông thử nghiệm, tìm tòi, làm việc với nhiều chất liệu như sơn mài, sơn dầu, bột màu, chì than. Nguyễn Tư Nghiêm đã tạo dựng một phong cách nghệ thuật đặc biệt từ việc học tập mỹ thuật dân tộc, kết hợp giữa quá khứ với hiện đại. Tranh của ông được giới hội họa trong và ngoài nước yêu thích, sưu tập. Họa sĩ được giới chuyên môn trang trọng xếp vào nhóm “tứ trụ” thế hệ thứ hai của mỹ thuật Việt Nam hiện đại, bao gồm các danh họa "Nghiêm - Liên - Sáng - Phái", cũng là người mất sau cùng trong bộ tứ này. Cùng với nhóm "tứ trụ" thứ nhất (Nguyễn Gia Trí - Tô Ngọc Vân - Nguyễn Tường Lân - Trần Văn Cẩn), họ là những gương mặt tiêu biểu cho thành tựu, cũng như các phong cách đặc trưng của hội họa Việt Nam trong giai đoạn từ đầu thế kỷ 20 tới nay.
Tác phẩm Chân dung (1989)
Chất liệu mạnh nhất của Nguyễn Tư Nghiêm là sơn mài truyền thống và về sau là bột màu, giấy dó. Chủ đề hay gặp trong tranh ông là những điệu múa cổ, Thánh Gióng, Kiều, và những con giáp. Màu ông yêu thích là màu của dân gian Việt Nam. Ông vẽ rất nhiều tranh về Thánh Gióng với tạo hình mạnh mẽ, cùng một ông Gióng, một con ngựa, mà chất liệu khác nhau, tư thế khác nhau. Ông nói: “Tôi không gắn bó với một nghệ thuật nước ngoài nào cả, tôi chỉ tìm nơi dân tộc và thấy trong dân tộc có nhân loại và hiện đại”.
Danh họa Nguyễn Tư Nghiêm tặng báo Thể thao & Văn hóa tranh ngựa bột màu trên giấy dó
Ngay với những nghệ sĩ lớn của thế giới, không phải ai cũng nhận được sự tâm phục khẩu phục thống nhất của các thế hệ, các đồng nghiệp cùng thời và lớp hậu bối. Nhưng Nguyễn Tư Nghiêm có được sự kính trọng toàn vẹn của mọi người về nhân cách nghệ thuật. Họa sỹ Đặng Xuân Hòa đầy cảm phục khi nhắc đến Nguyễn Tư Nghiêm: “Nguyễn Tư Nghiêm với bút pháp chủ nghĩa biểu hiện đã tạo nên con đường nghệ thuật lớn lao đích thực, ai nói về già ông vẽ lặp lại là nhận xét hời hợt. Ông càng vẽ càng phong phú, thanh thoát hơn, Nguyễn Tư Nghiêm đã vẽ chăm chỉ phong độ trong nhiều bối cảnh xã hội, chỉ có nghệ sĩ lớn mới có phong độ như thế”.
Chân dung họa sỹ Nguyễn Tư Nghiêm
Ông chính thức lập gia đình khi đã 70 tuổi cùng họa sĩ Nguyễn Thu Giang, cũng chính là cô con gái rượu của nhà văn Nguyễn Tuân. Bà Thu Giang tâm sự, ngày trước, chưa khi nào bà nghĩ sẽ là người nâng khăn sửa túi cho ông vì họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm vốn là bạn của nhà văn Nguyễn Tuân. Bà biết ông từ lâu và kính trọng như bậc cha chú. Bà cũng đã từng lập gia đình, có con. Rồi chồng bà mất. Con cái giờ cũng đã trưởng thành đâu vào đấy. Ông bà đến với nhau như một lẽ tự nhiên không thể khác, như kết cục tất yếu của hai tâm hồn đồng cảm. Ông cho biết: "Quanh tôi lúc nào cũng có nhiều phụ nữ, nhưng tôi chưa từng cưới và công nhận ai là vợ. Chỉ Thu Giang là vợ tôi".
Chân dung bà Thu Giang do danh họa Nguyễn Tư Nghiêm vẽ.
Nguyễn Tư Nghiêm, suốt cuộc đời đã sống xứng đáng với sự tôn vinh về một danh họa. Không chỉ ở tài năng khác biệt với những thành công sáng giá trong và ngoài nước, mà sức bền sáng và ảnh hưởng của ông đã vượt thế kỷ, vượt quỹ sống của mình để thành bất tử trong sự nể phục, thống nhất của các thế hệ nghệ sĩ. Nguyễn Tư Nghiêm cũng là hoạ sĩ hiếm hoi của nền mỹ thuật Việt Nam có bảo tàng riêng. Ông may mắn không chỉ vì sống thọ, minh mẫn khi tuổi gần thế kỷ, mà còn bởi 23 năm qua, Nguyễn Tư Nghiêm sống có đôi trong tình yêu bên bạn đời trẻ hơn gần 30 tuổi, đẹp và tận tâm. Chính nhờ bà mà ông duy trì được phong độ sáng tác bền bỉ. Nguyễn Tư Nghiêm ít nói, ít tuyên ngôn chỉ có một lần ông phát biểu trong một hội nghị về quan điểm nghệ thuật của mình: “Khai thác, đi đến tận cùng truyền thống, sẽ gặp hiện đại”.
Vợ chồng họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Thu Giang tại nhà riêng cuối tháng 12 2013. Ảnh Nguyễn Đình Toán
Lặng lẽ và kín đáo, Nguyễn Tư Nghiêm luôn là như vậy. Nhưng không vì thế mà ông bị lãng quên. Ngược lại, ông luôn được đánh giá là một trong những cánh chim đầu đàn của Mỹ thuật Việt Nam. Ông bỏ qua tất cả những ồn ào, bon chen của cuộc sống để sống trọn vẹn với đam mê hội họa của mình. Ông mất hồi 10h 27 phút ngày 15/06/2016 tại Bệnh viện Hữu nghị Hà Nội. Phần mộ của ông được an táng tại Nghĩa trang Văn Điển, cạnh phần mộ của cố nhà văn Nguyễn Tuân.
Gióng, sơn mài, 90x120,3 cm, 1990
Người đăng: Phạm Thành Hương (sưu tầm)